Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm kiếm
Tìm kiếm nhanh: van canh lich su lang canh
Xem: 1343|Trả lời: 0

Đình làng Kim Hoàng

[Sao chép liên kết]

33

Chủ đề

3

Bài viết

194

Tín dụng

Member

Tín dụng
194
Đăng vào 22-12-2024 23:40:36 | Hiển thị tất cả tầng |Chế độ đọc
Đình Kim Hoàng hiện tọa lạc trên một khu đất cao rộng tại trung tâm làng KimHoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức ngoại thành Hà Nội. Đình Kim Hoàng là têngọi ngôi đình theo địa danh của làng hiện nay. Tên gọi này vốn là tên ghép của hailàng Kim Bảng và Hoàng Bảng, qua tấm biển "Lưỡng bảng hội đình" hiện còn lưugiữ ở đình. Ở cây cột cái của đình còn ghi thời điểm tạo dựng là năm Chính Hòathứ 21, 1701.

Đình Kim Hoàng được xây dựng trên một khu đất cao xưa nay chưa hề lụt tới ở giữalàng và quay nhìn về hướng Tây. Khu đình có một không gian khá thoáng rộng, kiếntrúc ngôi đình cùng những cây đa cổ hàng trăm tuổi hòa quyện với nhau tạo nênmột vẻ cổ kính trang nghiêm cho khu đình. Quanh đình ngày nay nhà dân đã ở liềnkề ba phía nhưng ngôi đình vẫn nổi trội giữa những kiến trúc dân dụng bởi quy môbề thế của nó. Cũng giống như nhiều ngôi đình làng khác trong vùng, đình KimHoàng bao gồm các công trình kiến trúc: tam quan, tả hữu mạc, đại đình và hậucung. Các công trình kiến trúc này hòa nhập với nhau tạo thành một quần thể kiếntrúc hoàn chỉnh và thống nhất.Khu tam quan của đình mới được làm lại nên kiến trúc khá đơn giản. Chính giữalà một lối đi khá rộng được xác định bởi hai trụ gạch vuông. Hai bên là hai cửanách được làm theo lối cửa vòm. Nối cửa giữa với 2 cửa bên là bức tường xây lửng.
Hai bên của hai cửa nách là hai trụ biểu. Trụ được làm đơn giản trên cùng là hìnhbốn con chim phượng chụm đuôi vào nhau. Ngoài cùng tam quan, ở hai bên là haitrụ cột, trên mỗi trụ là hình một con nghê đắp bằng vữa.Qua tam quan là một lớp sân gạch khá rộng. Hai bên sân là hai dãy tả hữu mạc.Tả hữu mạc của đình được làm khá đơn giản. Đó là kiểu nhà đầu hồi bít đốc gồm3 gian. Bộ vì làm kiểu quá giang cột trốn. Liền với mép sân phía trong là tòa đạiđình. Đại đình là một ngôi nhà khá lớn gồm 5 gian 2 dĩ được làm theo kiểu hìnhrồng. Bờ nóc và bờ giải đắp kiểu bờ đinh. Hai đầu bờ nóc là hình hai con kìm ngậmđầu bờ nóc.Đại đình được dựng trên một nền đất xây xây bó xung quanh, mặt trước bó bằngcác phiến đá làm thành bậc tam cấp cao hơn sân 0.45m. Nền đất này rộng 21.9mvà ăn sâu vào trong 11.2m xung quanh có hiên rộng 1m, còn lại là lòng đại đình,rộng 19.9 x 9.2m chia thành 7 gian gồm 3 gian chính và hai gian chái, từ gian cháilại kéo thêm ra gian xép con nữa. Từ gian giữa phát triển ra hai bên thì từng đôi giancó số đo gần bằng nhau: gian giữa rộng 3.70m, gian liền kề gian giữa rộng 3.90m,gian chái rộng 3.10m và gian xép rộng 1.10m. Do gian xép quá hẹp nên dù quansát từ ngoài sân hay ở trong lòng đình người ta luôn có cảm giác đình 5 gian với 4vì nóc. Mỗi vì chia gian từ trước ra sau có 6 cột. Cả đại đình có 48 cột gồm ba loại:to nhỏ khác nhau quây thành 3 hình chữ nhật lồng nhau. Vòng ngoài là 24 cột hiên,vòng giữa là 16 cột quân, vòng trong là 8 cột cái. Theo chữ khắc trên các cột thìcột hiên có tên là “trụ”, cột quân là “trung trụ” và cột cái là”đại trụ”. Tất cả các cộtđều có dạng khối trụ tròn hình dòng dòng. Trên mỗi hàng cột đều có hoành, giữa2 cột cái có 10 khoảng hoành, cột cái đến cột quân có 5 khoảng hoành, cột quânđến cột hiên có 3 khoảng hoành, ngoài hiên có 2 khoảng hoành rộng do thanh bẩyđỡ.

Ba gian chính đại đình có 4 bộ vì nóc đều làm theo kiểu giá chiêng kết hợp vớikiểu chống ở hai bên giá chiêng. Giá chiêng của 2 vì nóc thuộc gian chái được giữlại kiểu thức giá chiêng của các đình làng thế kỷ 16-17, có lòng hẹp chỉ đỡ haikhoảng hoành và do đó khá cao. Giá chiêng của 2 vì nóc thuộc gian giữa có lòngrộng ngang đỡ bốn khoảng hoành nên thấp phát triển theo xu hướng gần thànhkiểu chồng giường thưa thường thấy ở các đình làng thế kỷ 18. Trên các bộ vì cột 21cái nối với cột quân theo kiểu kết cấu chồng đường xếp liền nhau tạo thành mảngcốn kín đặc để trang trí, còn nối cột quân với cột hiên là các thanh kẻ uốn cong.Trong đình trừ gian giữa đại đình, các gian khác trước đây đều có sàn gỗ đến naysàn và ván đều mất chỉ còn lại các dấu mộng trên thân cột. Từ giữa lòng đình rasườn đình sàn đỉnh có 3 nấc cao thấp khác nhau, đo theo lỗ dầm ở cột là 0.70m –0.84m - 0.96m. Xunh quanh đình trước kia là một hệ thống của bức bàn và chấnsong con tiện nay được xây gạch bít kín.Về nghệ thuật chạm khắc trang trí, những nghệ nhân xưa đã để lại một hệ thốngmảng chạm khắc trang trí dày đặc trong tòa đại đình. Trong đó tiêu biểu nhất làcác bức chạm trên các cốn dọc thuộc gian giữa và các cốn ngang thuộc gian chái.Các bức cốn này chỉ được chạm một mặt, đó là mặt mà người xem ở trong lòngđình tại những chỗ rộng rãi dễ phát hiện nhất. Gian giữa trang nghiêm được chạmchủ yếu đề tài rồng ổ và mây lửa, con người không phải nơi hành lễ có bốn bứccốn, đặc biệt là ở gian chái bên trái của đại đình, ngoài đề tài rồng phượng cònđược chạm khắc những hoạt cảnh của con người trong ngày hội như cảnh đánhvật, bắn cung, đâm đinh ba, thổi sáo...và người dự hội là những phụ nữ mặc xuềnhxoàng chiếc yếm, có cô còn đứng tốc cả váy bên cạnh là người đàn ông ăn mặcsang trọng, ở các cốn khác có những nhám tượng đặt trên sập thể hiện cảnh namcưỡi báo, nữ cưỡi voi và người cưỡi rồng.


Bên cạnh các bức cốn, các bộ phận khác của kiến trúc vì kèo cũng được chạmkhắc trang trí. 8 đầu dư trong đại đình chạm lộng các hình đầu rồng dao mác. Mộtsố thanh kẻ, xà nách chạm nổi đề tài cá hóa rồng, rồng chầu và vân xoắn ốc to.Trên những ván mỏng bẹt chạm nổi đề tài bát bửu. Các đầu bẩy hiên chạm nổihình rồng, văn mây xoắn. Các thanh giường trên vì nóc chỉ chạm nổi văn mây trangtrí đơn giản.Nhìn chung, đường nét chạm khắc chau chuốt tỷ mỷ, nét chạm sâu mềm, kết hợplối chạm nổi và chạm lộng, nghệ nhân xưa đã tạo nên các mảng chạm phong phúđa dạng và sinh động. Nghệ thuật chạm khắc trang trí ở đây mang đậm nét phongcách nghệ thuật thời Lê (thế kỷ 17-18).Nối liền với gian giữa đại đình và chạy sâu vào phía trong là phần hậu cung củađình. Hậu cung nối liền với đại đình tạo thành kiểu kết cấu kiến trúc hình chuôi vồ. 22Hậu cung gồm 3 gian được xây tường bít kín ba phía tạo nên vẻ thâm nghiêm. Bộvì kèo hậu cung có kết cấu và trang trí giống vì nóc tòa đại đình.Hậu cung là nơi thờ tự chính của đình. Gian trong cùng của hậu cung được làmthành sàn trên có khám thờ. Trong khám bày các long ngai bài vị thành hoàng làng.Các gian ngoài của hậu cung kê các nhang án và sập thờ, trên đó bày các đồ tế tựnhư đỉnh hương, mũ, bia thờ...Trên cột cái đình có hàng chữ cho biết, đình được cất nóc vào ngày mồng 3 thángHai năm Chính Hòa thứ 22 (Tân Tỵ, 1701).
Trên hai câu đầu của đình có ghi tên của những người đóng góp vào việc dựngđình: câu đầu bên phải là một quan viên người họ Trần ở làng Hoàng Bảng; câuđầu trái là của ông Nguyễn Đình Ký, người giáp Đông cùng vợ là người họ Đặng củalàng Kim Bảng.Trong hậu cung đình còn đôi câu đối về sự hợp nhất của hai làng Kim Bảng, HoàngBảng thành làng Kim Hoàng và vị phủ sinh hiến đất cho làng dựng đình nên đượclàng ghi ơn:“Tục truyền Hoàng Bảng, Kim Bảng lưỡng thôn, bất tường quyết hậu hà niên hợpnhất vi xã trung cự ấp,Đình phụng giang thần, địa thần nhị vị, truy cảm sở dĩ cố chỉ tái phụ dĩ hương nhânPhủ sinh”Tức lầ“Truyện rằng Hoàng Bảng, Kim Bảng hai thôn không rõ năm nào nhập xã thànhlàng lớn.Đình thờ thần đất, thần sông, nhưng vẫn nhớ tới công ơn của người làng là vị Phủsinh”Đình làng Kim Hoàng có 6 đạo sắc, phong cho hai vị thần (thần Đất và thần Sông),cùng được phong vào các thời điểm sau: ngày mồng 3 tháng Mười năm TựĐức thứmười (năm 1857), ngày mồng một tháng Bảy năm Đồng Khánh thứ hai (năm 1887);ngày 25 tháng Bảy năm Khải Định thứ chín (năm 1924).
Bạn cần đăng nhập để trả lời Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc tích điểm trong diễn đàn này

Archiver|Mobile|Vân Canh

GMT+7, 24-4-2025 11:14 , Processed in 0.011313 second(s), 19 queries .

Powered by Discuz! X3.5

© 2001-2025 Discuz! Team

Trả lời nhanh Lên đầu trang Quay lại danh sách