Xã Vân Canh thời phong kiến cũng như hiện nay đều gồm ba thôn (làng cũ): Kim Hoàng (làng này vốn gồm hai làng Kim Bảng và Hoàng Bảng nhập thành vào đầu thế kỷ XVIII), Hậu Ái, An Trai. Đầu thế kỷ XIX, xã thuộc tổng Hương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (từ năm Minh Mạng thứ 12-1831) thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội; năm Thành Thái thứ 14-1902 là tỉnh Cầu Đơ, năm 1904 là tỉnh Hà Đông). Hiện nay xã thuộc huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
Cả ba làng hiện còn đình, chùa, một số nhà thờ họ.Trong các di tích này, hiện còn lưu một số tài liệu Hán Nôm sau (kê theo các loại hình văn bản Hán Nôm kết hợp loại hình di tích):
I. BIA VÀ CÂY HƯƠNG ĐÁ TRONG CHÙA
Trong 3 chùa của 3 làng hiện còn lưu giữ 6 tấm bia, 1 cây hương đá. Cụ thể như sau (kê theo chùa):
1. Bia Hậu Phật bi ký dựng ở gian phải (theo hướng chùa) trong tòa Tiền đường chùa Đại Bi của làng Kim Hoàng, lập ngày 26 tháng Một năm Chính Hòa thứ 25 (Giáp Thân, 1704). Bia có hai mặt chữ, chữ chân phương, rất sắc nét, dễ đọc. Nội dung của bia ghi rõ, ở thời điểm này, bà Lê Thị Thu, hiệu Diệu Trí, vốn là con nhà phú hòa, quý tộc, quê ở huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hoa; cùng chồng là Huyện thừa huyện Nghi Dương, tước Cơ Thọ nam, họ Nguyễn, tự là Xuân Thung, hiệu là Trung Tín đã hiến cho chùa 18 quan tiền cổ và 1 mẫu 1 sào rưỡi ruộng, được làng tôn làm Hậu Phật. Chùa trở thành “Cổ tích danh lam có tiếng, trên mảnh đất rất thiêng, có nhiều người giỏi”. Giá trị lớn nhất của bia này là cho biết tên những người đại diện các dòng họ thuộc 4 giáp (Trù, Đông, Trung, Đình) của hai làng Kim Bảng và Hoàng Bảng ở thời điểm lập bia(1). Bia này còn lưu trong Tổng tập thác bản văn bia..., tập I, ký hiệu N01612-1613.
2. Bia Hậu Phật đại bi tự điền tỉnh lập bi ký ở bên trái tòa Tiền đường chùa Đại Bi làng Kim Hoàng. Bia có hai mặt chữ, chữ chân phương, còn rõ nét, dễ đọc. Một mặt lập ngày mồng 4 tháng Tư năm Bảo Thái thứ sáu (năm 1725) ghi việc bà Nguyễn Thị Trưng cúng cho làng một mẫu ruộng để phục vụ việc thờ cúng trong chùa và tu bổ giếng trước cửa chùa. Mặt sau do Tiến sĩ Trần Hiền - người làng soạn, lập ngày Tốt, tháng Chín năm đầu niên hiệu Vĩnh Hựu (năm Ất Mão, 1735), ghi việc làng nhớ công ơn của ông Nguyễn Xuân Thung, bà Lê Thị Thu, bà Nguyễn Thị Trưng đã góp công tu bổ chùa. Bia này không có trong Tổng tập thác bản văn bia Hán Nôm.
3. Bia Hậu Phật bi ký lưu trong chùa Đại Ý của làng Hậu Ái. Đây là tấm bia nhỏ, mỗi mặt có 7 hàng chữ, mỗi hàng chỉ có 20 chữ. Bia được lập ngày 12 tháng Ba năm Long Đức thứ hai (năm 1733) song được lập lại ngày mồng 7 tháng Ba năm Minh Mạng thứ sáu (năm 1825). Nội dung ghi về việc vào niên hiệu Long Đức (173201734), bà Lê Thị, hiệu Từ Trí, vợ một viên Cẩn sự Tá long đã cúng cho làng 1 mẫu 9 sào ruộng, nên được dân làng tôn làm Hậu Phật. Bia này không có trong Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm.
4. Bia Hậu Phật bi ký: vốn là bia của Tường Quang (chùa Khái)(2) làng An Trai, hiện dựng ở đầu hồi chùa Ngọc Quang. Bia có hai mặt chữ, chữ chân phương, còn rõ nét, dễ đọc, lập ngày Tốt, tháng Hai (Trọng Xuân), năm Tân Tỵ, Chính Hòa thứ 22 (1701). Bài văn bia cho biết, vào thời điểm này, làng đã hoàn thành việc tu tạo cả Thượng điện, Thiêu hương và Tiền đường, làm mới các bức tượng Phật của chùa, chứng tỏ chùa đã được xây dựng trước đó khá lâu. Việc đại tu này gắn với vai trò hưng công (không cho biết rõ số tiền, của cụ thể) của bà Lê Thị Hy, hiệu Diệu Tịnh, người làng Nhân Ái (tức Hậu Ái), được dân làng tôn làm Hậu phật, tạc tượng thờ ở chùa. Bia này còn lưu trong Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm..., tập 2, ký hiệu N01619-1620.
5. Bia Di bi vạn đại vốn là bia của chùa Hạ Ngọc (chùa Trên) của làng An Trai, hiện dựng ở đầu hồi chùa Ngọc Quang. Bia được lập ngày Tốt, tháng Năm (trọng Hạ) năm Quý Mùi, Chính Hòa thứ 24 (1703) thì thời điểm này, đã hoàn thành việc tu tạo tòa Tiền đường. Bia còn lưu trong Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm, ký hiệu N01610-1611.
6. Cây hương đá (không có tiêu đề), vốn của chùa Tường Quang; lập ngày 12 tháng Hai năm Canh Tý, Vĩnh Thịnh thứ 16 (1720) thì đến đầu năm này, chùa đã qua một đợt tu tạo lớn, với cả Thượng điện, Thiêu hương, Tiền đường và các tượng Phật, với sự hưng công của nhiều người và công đức của khách thập phương. Số tiền công đức lên đến 100 quan, và số ruộng là 1 mẫu 7 sào. Số ruộng này giao cho hai giáp Đông, Tây mỗi giáp 7 sào, quan viên văn thuộc của mỗi giáp một sào, còn một sào giao cho người giữ chùa cày cấy. Người được bầu làm Hậu phật là bà Nguyễn Thị Tường, hiệu Diệu Hương. Cây hương này còn lưu trong Tổng tập thác bản văn bia Hán Nôm..., tập 2, ký hiệu N01621.
Ngoài ra, ở đầu hồi chùa Ngọc Quang hiện còn tấm bia khổ nhỏ, không rõ của chùa nào, được lập ngày 22 tháng Năm, năm Cảnh Hưng thứ 6 (1745), ghi danh sách các hội chủ đóng góp tu bổ chùa. Bia này không có trong Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm.
II. CÁC TẤM BIA KHÁC
1. Bia Đồng Khấu thạch kiều bi ký: là tấm bia trụ, trước đây dựng ở ngoài đồng, hiện dựng ven đường liên xã (đường cổ) đi Sơn Đồng, trước cửa đình làng Hậu Ái. Bia có hai mặt chữ, chân phương, rõ nét, dễ đọc. Bia được lập ngày Tốt tháng Tám năm đầu niên hiệu Vĩnh Hựu (Ất Mão, 1735). Người soạn bia là Tiến sĩ Trần Hiền - người làng Kim Hoàng. Bài văn bia ghi rõ, sau khi đỗ đạt, Trần Hiền cùng mẹ là Nguyễn Thị Giá cùng hai người vợ là Hà Thị Đại và Hà Thị Hựu đã cung tiến nhiều tiền của, đồng thời vận động nhiều quan lại cao cấp thân quen góp tiền của để dựng ba chiếc cầu đá là cầu Đá Năng (cầu Đồng Trầm), cầu Đọ (hay cầu Độ, trên đường sang làng Lại Yên) và cầu Ván (ở giữa đồng làng Kim Hoàng) để dân đi lại được thuận tiện. Trong số các vị quan trên có cả Phạm Gia Ninh - Tiến sĩ khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh (năm 1731), chức quan là Chiêu văn quán, Tư huấn, Giám sát Ngự sử đạo Hải Dương, người làng Đông Ngạc và Nguyễn Trung Kinh - Tri Thị nội thư, Tả Hộ phiên, Thái thường tự khanh cùng nhiều quan lại cao cấp khác. Bia không có tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
2. Trong các nhà thờ họ Trần, Đàm hiện còn một số tấm bia họ... Trong đình làng Hậu Ái còn 2 tấm bia vốn của Văn chỉ chuyển về, ghi tên những người làng đỗ đạt qua các kỳ thi. Tại lăng mộ Tiến sĩ Lê Đức Vọng có bia lập vào thời điểm “Hoàng Nhâm Ngọ Bảo Đại 1942), ghi tên (tự, hiệu), mức đỗ, năm đỗ chức quan của ông(3).
3. Theo Tổng tập thác bản văn bia thì xã Vân Canh trước đây có tấm bia Tam bảo thị - Vân Canh thị công đức bi ký. Bia được lập ngày Lành tháng Trọng Xuân (tháng Hai) năm Chính Hòa thứ tám (năm 1687), nội dung ghi rõ các ông Lê Đức Mộ, Trịnh Văn (...) đứng ra hưng công cùng các quan viên Lê Đôn Nghiệp, Xã trưởng Nguyễn Kim Trình v.v. góp tiền của vào việc xây chợ. Qua khảo sát thực địa cho thấy, đây là chợ của xã Vân Canh, tọa lạc trên một con đìa ven đồng Trầm thuộc địa phận làng Hậu Ái, trên đường đi lên Nhổn, nên gọi là chợ Đìa, họp vào các ngày 2 và 7 của các tuần trong tháng(4). Bia này hiện bia không còn trong làng, nhưng còn thác bản được lưu tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu N0 1617-1618).
III. CHUÔNG
Hiện trong các đình chùa của ba làng còn 3 quả chuông:
1. Đại Ý tự chung (chuông chùa Đại Ý): khắc ngày 17 tháng Một năm Bính Thân đời vua Minh Mạng (năm 1836) ghi việc đúc lại chuông, ghi tên những người góp tiền của, trong đó có cả Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa và rất nhiều người ở các phường thuộc tỉnh thành Hà Nội (phường Diên Hưng, phường Hà Khẩu...). Chuông cũng cho biết, ở thời điểm này, làng Hậu Ái có 4 giáp (không cho biết tên cụ thể từng giáp)(5).
2. Hạ Ngọc tự chung (chuông chùa Hạ Ngọc): khắc ngày 10 tháng Chạp năm Thiệu Trị thứ năm (Ất Tỵ, 1845) ghi việc đúc lại chuông, ghi tên những người góp tiền của vào việc này.
Đại Bi tự chung (chuông chùa Đại Bi) treo trên gác tam quan chùa Đại Bi làng Kim Hoàng. Chuông được đúc vào ngày 13 tháng Năm (trọng Hạ), năm Kỷ Mùi niên hiệu Cảnh Thịnh thứ bảy (năm 1799). Bài văn bia do Tri huyện Mỹ Lương là Nguyễn Thông Tế soạn, có bài minh 28 câu ca ngợi cảnh đẹp của chùa. Điều đáng lưu ý là chữ “Thịnh” trên dòng lạc khoản của chuông còn nguyên vẹn, chứng tỏ, dân làng Kim Hoàng rất trân trọng, bảo vệ di sản văn hóa của vương triều Tây Sơn.
Cả ba làng hiện còn đình, chùa, một số nhà thờ họ.Trong các di tích này, hiện còn lưu một số tài liệu Hán Nôm sau (kê theo các loại hình văn bản Hán Nôm kết hợp loại hình di tích):
I. BIA VÀ CÂY HƯƠNG ĐÁ TRONG CHÙA
Trong 3 chùa của 3 làng hiện còn lưu giữ 6 tấm bia, 1 cây hương đá. Cụ thể như sau (kê theo chùa):
1. Bia Hậu Phật bi ký dựng ở gian phải (theo hướng chùa) trong tòa Tiền đường chùa Đại Bi của làng Kim Hoàng, lập ngày 26 tháng Một năm Chính Hòa thứ 25 (Giáp Thân, 1704). Bia có hai mặt chữ, chữ chân phương, rất sắc nét, dễ đọc. Nội dung của bia ghi rõ, ở thời điểm này, bà Lê Thị Thu, hiệu Diệu Trí, vốn là con nhà phú hòa, quý tộc, quê ở huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hoa; cùng chồng là Huyện thừa huyện Nghi Dương, tước Cơ Thọ nam, họ Nguyễn, tự là Xuân Thung, hiệu là Trung Tín đã hiến cho chùa 18 quan tiền cổ và 1 mẫu 1 sào rưỡi ruộng, được làng tôn làm Hậu Phật. Chùa trở thành “Cổ tích danh lam có tiếng, trên mảnh đất rất thiêng, có nhiều người giỏi”. Giá trị lớn nhất của bia này là cho biết tên những người đại diện các dòng họ thuộc 4 giáp (Trù, Đông, Trung, Đình) của hai làng Kim Bảng và Hoàng Bảng ở thời điểm lập bia(1). Bia này còn lưu trong Tổng tập thác bản văn bia..., tập I, ký hiệu N01612-1613.
2. Bia Hậu Phật đại bi tự điền tỉnh lập bi ký ở bên trái tòa Tiền đường chùa Đại Bi làng Kim Hoàng. Bia có hai mặt chữ, chữ chân phương, còn rõ nét, dễ đọc. Một mặt lập ngày mồng 4 tháng Tư năm Bảo Thái thứ sáu (năm 1725) ghi việc bà Nguyễn Thị Trưng cúng cho làng một mẫu ruộng để phục vụ việc thờ cúng trong chùa và tu bổ giếng trước cửa chùa. Mặt sau do Tiến sĩ Trần Hiền - người làng soạn, lập ngày Tốt, tháng Chín năm đầu niên hiệu Vĩnh Hựu (năm Ất Mão, 1735), ghi việc làng nhớ công ơn của ông Nguyễn Xuân Thung, bà Lê Thị Thu, bà Nguyễn Thị Trưng đã góp công tu bổ chùa. Bia này không có trong Tổng tập thác bản văn bia Hán Nôm.
3. Bia Hậu Phật bi ký lưu trong chùa Đại Ý của làng Hậu Ái. Đây là tấm bia nhỏ, mỗi mặt có 7 hàng chữ, mỗi hàng chỉ có 20 chữ. Bia được lập ngày 12 tháng Ba năm Long Đức thứ hai (năm 1733) song được lập lại ngày mồng 7 tháng Ba năm Minh Mạng thứ sáu (năm 1825). Nội dung ghi về việc vào niên hiệu Long Đức (173201734), bà Lê Thị, hiệu Từ Trí, vợ một viên Cẩn sự Tá long đã cúng cho làng 1 mẫu 9 sào ruộng, nên được dân làng tôn làm Hậu Phật. Bia này không có trong Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm.
4. Bia Hậu Phật bi ký: vốn là bia của Tường Quang (chùa Khái)(2) làng An Trai, hiện dựng ở đầu hồi chùa Ngọc Quang. Bia có hai mặt chữ, chữ chân phương, còn rõ nét, dễ đọc, lập ngày Tốt, tháng Hai (Trọng Xuân), năm Tân Tỵ, Chính Hòa thứ 22 (1701). Bài văn bia cho biết, vào thời điểm này, làng đã hoàn thành việc tu tạo cả Thượng điện, Thiêu hương và Tiền đường, làm mới các bức tượng Phật của chùa, chứng tỏ chùa đã được xây dựng trước đó khá lâu. Việc đại tu này gắn với vai trò hưng công (không cho biết rõ số tiền, của cụ thể) của bà Lê Thị Hy, hiệu Diệu Tịnh, người làng Nhân Ái (tức Hậu Ái), được dân làng tôn làm Hậu phật, tạc tượng thờ ở chùa. Bia này còn lưu trong Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm..., tập 2, ký hiệu N01619-1620.
5. Bia Di bi vạn đại vốn là bia của chùa Hạ Ngọc (chùa Trên) của làng An Trai, hiện dựng ở đầu hồi chùa Ngọc Quang. Bia được lập ngày Tốt, tháng Năm (trọng Hạ) năm Quý Mùi, Chính Hòa thứ 24 (1703) thì thời điểm này, đã hoàn thành việc tu tạo tòa Tiền đường. Bia còn lưu trong Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm, ký hiệu N01610-1611.
6. Cây hương đá (không có tiêu đề), vốn của chùa Tường Quang; lập ngày 12 tháng Hai năm Canh Tý, Vĩnh Thịnh thứ 16 (1720) thì đến đầu năm này, chùa đã qua một đợt tu tạo lớn, với cả Thượng điện, Thiêu hương, Tiền đường và các tượng Phật, với sự hưng công của nhiều người và công đức của khách thập phương. Số tiền công đức lên đến 100 quan, và số ruộng là 1 mẫu 7 sào. Số ruộng này giao cho hai giáp Đông, Tây mỗi giáp 7 sào, quan viên văn thuộc của mỗi giáp một sào, còn một sào giao cho người giữ chùa cày cấy. Người được bầu làm Hậu phật là bà Nguyễn Thị Tường, hiệu Diệu Hương. Cây hương này còn lưu trong Tổng tập thác bản văn bia Hán Nôm..., tập 2, ký hiệu N01621.
Ngoài ra, ở đầu hồi chùa Ngọc Quang hiện còn tấm bia khổ nhỏ, không rõ của chùa nào, được lập ngày 22 tháng Năm, năm Cảnh Hưng thứ 6 (1745), ghi danh sách các hội chủ đóng góp tu bổ chùa. Bia này không có trong Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm.
II. CÁC TẤM BIA KHÁC
1. Bia Đồng Khấu thạch kiều bi ký: là tấm bia trụ, trước đây dựng ở ngoài đồng, hiện dựng ven đường liên xã (đường cổ) đi Sơn Đồng, trước cửa đình làng Hậu Ái. Bia có hai mặt chữ, chân phương, rõ nét, dễ đọc. Bia được lập ngày Tốt tháng Tám năm đầu niên hiệu Vĩnh Hựu (Ất Mão, 1735). Người soạn bia là Tiến sĩ Trần Hiền - người làng Kim Hoàng. Bài văn bia ghi rõ, sau khi đỗ đạt, Trần Hiền cùng mẹ là Nguyễn Thị Giá cùng hai người vợ là Hà Thị Đại và Hà Thị Hựu đã cung tiến nhiều tiền của, đồng thời vận động nhiều quan lại cao cấp thân quen góp tiền của để dựng ba chiếc cầu đá là cầu Đá Năng (cầu Đồng Trầm), cầu Đọ (hay cầu Độ, trên đường sang làng Lại Yên) và cầu Ván (ở giữa đồng làng Kim Hoàng) để dân đi lại được thuận tiện. Trong số các vị quan trên có cả Phạm Gia Ninh - Tiến sĩ khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh (năm 1731), chức quan là Chiêu văn quán, Tư huấn, Giám sát Ngự sử đạo Hải Dương, người làng Đông Ngạc và Nguyễn Trung Kinh - Tri Thị nội thư, Tả Hộ phiên, Thái thường tự khanh cùng nhiều quan lại cao cấp khác. Bia không có tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
2. Trong các nhà thờ họ Trần, Đàm hiện còn một số tấm bia họ... Trong đình làng Hậu Ái còn 2 tấm bia vốn của Văn chỉ chuyển về, ghi tên những người làng đỗ đạt qua các kỳ thi. Tại lăng mộ Tiến sĩ Lê Đức Vọng có bia lập vào thời điểm “Hoàng Nhâm Ngọ Bảo Đại 1942), ghi tên (tự, hiệu), mức đỗ, năm đỗ chức quan của ông(3).
3. Theo Tổng tập thác bản văn bia thì xã Vân Canh trước đây có tấm bia Tam bảo thị - Vân Canh thị công đức bi ký. Bia được lập ngày Lành tháng Trọng Xuân (tháng Hai) năm Chính Hòa thứ tám (năm 1687), nội dung ghi rõ các ông Lê Đức Mộ, Trịnh Văn (...) đứng ra hưng công cùng các quan viên Lê Đôn Nghiệp, Xã trưởng Nguyễn Kim Trình v.v. góp tiền của vào việc xây chợ. Qua khảo sát thực địa cho thấy, đây là chợ của xã Vân Canh, tọa lạc trên một con đìa ven đồng Trầm thuộc địa phận làng Hậu Ái, trên đường đi lên Nhổn, nên gọi là chợ Đìa, họp vào các ngày 2 và 7 của các tuần trong tháng(4). Bia này hiện bia không còn trong làng, nhưng còn thác bản được lưu tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu N0 1617-1618).
III. CHUÔNG
Hiện trong các đình chùa của ba làng còn 3 quả chuông:
1. Đại Ý tự chung (chuông chùa Đại Ý): khắc ngày 17 tháng Một năm Bính Thân đời vua Minh Mạng (năm 1836) ghi việc đúc lại chuông, ghi tên những người góp tiền của, trong đó có cả Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa và rất nhiều người ở các phường thuộc tỉnh thành Hà Nội (phường Diên Hưng, phường Hà Khẩu...). Chuông cũng cho biết, ở thời điểm này, làng Hậu Ái có 4 giáp (không cho biết tên cụ thể từng giáp)(5).
2. Hạ Ngọc tự chung (chuông chùa Hạ Ngọc): khắc ngày 10 tháng Chạp năm Thiệu Trị thứ năm (Ất Tỵ, 1845) ghi việc đúc lại chuông, ghi tên những người góp tiền của vào việc này.
Đại Bi tự chung (chuông chùa Đại Bi) treo trên gác tam quan chùa Đại Bi làng Kim Hoàng. Chuông được đúc vào ngày 13 tháng Năm (trọng Hạ), năm Kỷ Mùi niên hiệu Cảnh Thịnh thứ bảy (năm 1799). Bài văn bia do Tri huyện Mỹ Lương là Nguyễn Thông Tế soạn, có bài minh 28 câu ca ngợi cảnh đẹp của chùa. Điều đáng lưu ý là chữ “Thịnh” trên dòng lạc khoản của chuông còn nguyên vẹn, chứng tỏ, dân làng Kim Hoàng rất trân trọng, bảo vệ di sản văn hóa của vương triều Tây Sơn.